Điện tâm đồ. 4 điện cực cho tay chân, 6 điện cực trên ngực
Willem Einthoven và máy ghi điện tim
Di chuyển dòng điện của tim. Từ hạch SA trong tâm nhĩ chuyền xuống hạch AV và lan vào tâm thất (x giây)
Điện tâm đồ của một chu chuyển bình thường. Sóng P thể hiện nhĩ thu (tâm nhĩ bóp), phức hợp QRST là tâm thất thu. Sau sóng T là tâm trương (tim nghỉ).
Điện tâm đồ. Đoạn ST nâng lên trong phần II,III, AVF. Nhồi máu phần dưới cơ tim.
Điện tâm đồ (
tiếng Anh: Electrocardiogram) là đồ thị ghi những thay đổi của dòng
điện trong
tim. Quả tim co bóp theo nhịp được điều khiển của một hệ thống dẫn truyền trong cơ tim. Những dòng điện tuy rất nhỏ, khoảng 1 phần nghìn volt, nhưng có thể dò thấy được từ các
cực điện đặt trên tay, chân và ngực bệnh nhân và chuyển đến máy ghi. Máy ghi điện khuếch đại lên và ghi lại trên điện tâm đồ. Điện tâm đồ được sử dụng trong y học để phát hiện các bệnh về tim như
rối loạn nhịp tim,
suy tim,
nhồi máu cơ tim v.v...
Lịch sử
- 1887 - Augustus D. Waller (St Mary's Medical School, London) trình bày ECG đầu tiên trên người của Thomas Goswell, một người làm việc trong phòng thử nghiệm. [1]
- 1893 - Willem Einthoven giới thiệu từ 'electrocardiogram' tại buổi họp của Hội Y Học Hà Lan. (nhưng sau đó ông sửa lại rằng Waller là người đầu tiên dùng chữ này). [2]
- 1895 - Einthoven cải tiến dụng cụ và công thức ghi điện, ghi được 5 thay đổi điện trong một nhịp tim, ông ghép chữ cho 5 thay đổi này (P, Q, R, S, T, U). [3]
Sơ lược về hệ thống điện timTim người có 4 buồng để chứa và
bơm máu. Hai phần nhỏ ở phía trên gọi là
tâm nhĩ (vì trông giống lỗ tai). Hai phần dưới lớn hơn gọi là
tâm thất. Máu theo
tĩnh mạch từ
cơ thể trở về tâm nhĩ phải, từ
phổi trở về tâm nhĩ trái . Tâm nhĩ trái bóp bơm máu vào
tâm thất trái,
tâm nhĩ phải đưa máu vào
tâm thất phải. Sau đó tâm thất phải bóp để bơm máu theo
động mạch lên phổi và tâm thất trái bóp để bơm máu xuống cơ thể. Tim có khả năng hoạt động đều đặn và thứ tự như thế là nhờ một hệ thống các
tế bào dẫn điện đặc biệt nằm trong cơ tim.
Trong tâm nhĩ bên phải có nút nhĩ thất (sinoatrial node) - gồm các tế bào có khả năng tự tạo
xung điện (electric impulse). Xung điện này truyền ra các cơ chung quanh làm co bóp hai tâm nhĩ (tạo nên sóng P trên Điện Tâm đồ). Sau có dòng điện tiếp tục truyền theo 1 chuỗi tế bào đặc biệt tới nút nhĩ thất (atrioventricular node) nằm gần vách liên thất rồi theo chuỗi tế bào sợi Purkinje chạy dọc vách liên thất lan vào các cơ chung quanh (loạt sóng QRS) làm hai thất này co bóp. Sau đó xung điện giảm đi, tâm thất giãn ra (tạo nên sóng T).
Áp dụng y họcĐiện tâm đồ được sử dụng trong nhiều trường hợp y học:
* Chẩn đoán nhồi máu cơ tim khi cơ tim bị thiếu máu và dưỡng khí, khả năng chuyển điện của cơ sẽ thay đổi. Sự thay đổi này có thể ghi nhận được trên điện tâm đồ.
* Chẩn đoán và theo dõi rối loạn nhịp tim nhịp tim đập do một hệ thống điện rất tinh vi điều hành. Khi có rối loạn trong các đường dẫn điện, hệ thống thay đổi làm
loạn nhịp.
* Chẩn đoán các chứng tim lớn khi tim lớn vì cơ tim dày lên hay mỏng đi và dòng điện đi qua sẽ thay đổi theo.
* Chẩn đoán một số thay đổi sinh hóa máu vì điện tim là do sự di chuyển của các ion như
natri,
kali,
calcium, v.v ... . Khi có thay đổi lớn trong nồng độ các chất này, điện tâm đồ có khả năng thay đổi.
* Chẩn đoán một số ngộ độc thuốc Thuốc
digoxin làm thay đổi đoạn
ST của mọi cực.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng làm dài đoạn
QT.