Gan là một cơ quan của các
động vật có xương sống, bao gồm cả con người. Cơ quan này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
chuyển hóa và một số các chứa năng khác trong cơ thể như dự trữ
glycogen, tổng hợp
protein huyết tương và thải độc. Gan cũng sản xuất dịch
mật, một dịch thể quan trọng trong quá trình
tiêu hóa. Gan được xem là nhà mày hóa chất của cơ thể vì nó đảm trách cũng như điều hòa rất nhiều các phản ứng
hóa sinh mà các phản ứng này chỉ xảy ra ở một số tổ chức đặc biệt của cơ thể mà thôi.
[sửa] Giải phẫu Gan nhìn mặt dưới
Gan người trưởng thành thường nặng 1,4 - 1,6
kilôgam[1], mềm, có màu
đỏ sẫm. Gan là một cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể
[2] và đồng thời một
tuyến lớn nhất trong cơ thể. Gan nằm ngày dưới
cơ hoành (hoành cách mô) ở phần trên, bên phải của ổ bụng. Gan nằm về phía bên phải của
dạ dày (bao tử) và tạo nên giường
túi mật.
Gan được cung cấp máu bởi hai mạch chính ở thùy phải:
động mạch gan và
tĩnh mạch cửa (tĩnh mạch gánh). Động mạch gan thường bắt nguồn từ
động mạch thân tạng. Tĩnh mạch cửa dẫn lưu máu từ
lách,
tụy và
ruột non nhờ đó mà gan có thể tiếp cận được nguồn
dinh dưỡng cũng như các sản phẩm phụ của quá trình tiêu hóa thức ăn. Các
tĩnh mạch gan dẫn lưu máu từ gan và đổ trực tiếp vào
tĩnh mạch chủ dưới.
Mật sản xuất trong gan được tập trung tại các
tiểu quản mật. Các tiểu quản này sẽ hội lưu với nhau tạo thành ống mật. Các ống mật sẽ đổ về ống gan trái hoặc ống gan phải. Hai ống gan này cuối cùng sẽ hợp nhất thành ống gan chung. Ống cổ túi mật (nối
túi mật) vào ống gan chung]] và hình thành ống mật chủ. Mật có thể đổ trực tiếp từ gan vào
tá tràng thông qua ống mật chủ hoặc tạm thời được lưu trữ trong túi mật thông qua con đường ống cổ túi mật.
Ống mật chủ và
ống tụy đổ vào tá tràng ở bóng Vater.
Gan là một trong số ít nội tạng của cơ thể có khả năng tái tạo lại một lượng nhu mô bị mất. Nếu khối lượng gan mất dưới 25% thì gan có thể tái tạo hoàn toàn. Điều này là do
tế bào gan có khả năng đặc biệt như là một tế bào mầm đơn thẩm quyền (nghĩa là tế bào gan có thể phân đôi thành hai tế bào gan). Cũng có một số tế bào mầm song thẩm quyền gọi là các tế bào oval có thể biệt hóa thành tế bào gan và tế bào lót mặt trong ống mật.
[sửa] Giải phẫu bề mặtTrừ nơi gan được nối vào cơ hoành thì toàn bộ bề mặt gan được bao phủ bởi lớp
phúc mạng tạng, một lớp màng kép, mỏng có tác dụng làm giảm ma sát giữa các cơ quan với nhau. Phúc mạng này tạo nên các dây chằng liềm và dây chằng tam giác. Các "dây chằng" này không giống như các dây chằng thực sự ở các
khớp và không có chức năng quan trọng nhưng nó lại là những mốc giải phẫu bề mặt giúp nhận biết trong quá trình phẫu thuật.
Về mặt giải phẫu đại thể, gan có thể được chia thành bốn thùy dựa trên các đặc điểm bề mặt. Dây chằng liềm có thể nhìn thấy ở mặt trước của gan chia gan thành hai phần: thùy gan trái và thùy gan phải.
Nếu nhìn từ mặt sau (hay mặt tạng) thì gan còn có hai thùy phụ nằm giữa thùy gan phải và thùy gan trái. Đây là các thùy đuôi (nằm phía trên) và thùy vuông (nằm phía dưới).
[sửa] Giải phẫu chức năngĐối với phẫu thuật cắt gan thì việc hiểu cặn kẽ cấu trúc của gan dựa trên hệ thống cung cấp máu và dẫn lưu mật có vai trò sống còn. Vùng trung tâm, nơi ống mật chủ, tĩnh mạch cửa và
động mạch gan đi vào gan được gọi là "rốn" gan. Ống mật, tĩnh mạch và động mạch chia thành các nhánh trái và phải và phần gan được cung cấp máu hay dẫn lưu mạnh bởi các nhánh này được gọi là thùy gan chức năng trái và phải. Các thùy chức năng được chia ra bởi một mặt phẳng nối từ hố túi mật đến tĩnh mạch chủ dưới. Theo trường phái Pháp thì các thùy chức năng này được chia thành 8 phân thùy khác nhan dựa trên sự phân nhánh bậc hai và bậc ba của hệ thống mạch máu. Các phân thùy tương ứng với giải phẫu bề mặt gồm:
ThùyPhân thùy
đuôi | 1 |
trái | 2, 3 |
vuông | 4 |
phải | 5, 6, 7, 8 |
[sửa] Sinh lýChức năng của gan được thực hiện bởi tế bào gan.
Gan cũng là nơi chuyển hóa protein.
Gan cũng là cơ quan tham gia vào quá trình chuyển hóa lipid:
Tổng hợp cholesterol
Sản xuât triglyceride.
Gan tổng hợp các yếu tố đông máu, fibrinogen (yếu tố I), thrombin (prothrombin), yếu tố V, yếu tố VII, yếu tố IX, yếu tố X và yếu tố XI cũng như protein C, protein S và antithrombin.
Gan giáng hóa hemoglobin tạo nên các sản phẩm chuyển hóa đi vào dịch mật dưới hình thức các sắc tố mật.
Gan giáng hóa các chất độc và thuốc thông qua quá trình gọi là chuyển hóa thuốc. Tuy nhiên quá trình chuyển hoá này có thể gây độc vì chất chuyển hóa lại độc hơn tiền chất của nó.
Gan chuyển ammonia thành urea.
Gan dự trữ rất nhiều chất khác nhau bao gồm glucose dưới dạng glycogen, vitamin B12, sắt và đồng.
Trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ, gan là nơi tạo hồng cầu chính cho thai nhi. Vào tuần thứ 32 của thai kỳ, tủy xương đảm nhận gần như toàn bộ chức năng này.
Gan còn tham gia vào quá trình miễn dịch: hệ thống lưới nội mô của gan chứa rất nhiều tế bào có thẩm quyền miễn dịch hoạt động như một cái rây nhằm phát hiện những kháng nguyên trong dòng máu do tĩnh mạch cửa mang đến.
Hiện tại, không có một cơ quan nhân tạo nào có thể đảm trách được toàn bộ chức năng vô cùng phức tạp của gan. Chỉ một số chức năng có thể thực hiện được thông qua con đường nhân tạo như
thẩm phân gan trong điều trị
suy gan.
[sửa] Bệnh lýRất nhiều bệnh lý của gan có biểu hiện triệu chứng
vàng da do sự tăng cao nồng độ
bilirubin trong máu. Bilirubin là sản phẩm của quá trình giáng hóa
hemoglobin từ những tế bào
hồng cầu chết. Thông thường thì gan loại bỏ bilirubin ra khỏi dòng máu và tiết vào ruột theo mật.
Cũng có nhiều bệnh lý nhi khoa liên quan đến gan như teo đường mật bẩm sinh, thiếu
alpha-1 antitrypsin,
hội chứng Alagille và
ứ mật trong gan tuần tiến có tính chất gia đình.
Một số xét nghiệm
chức năng gan nhằm đánh giá chức năng gan. Các xét nghiệm này khảo sát sự hiện diện của một số
enzyme trong máu mà bình thường chúng hiện diện với mức độ lớn trong gan.